Những năm gần đây, diện tích trồng dong riềng và số lượng cơ sở chế biến miến dong đều tăng lên; nhất là khi miến dong đã trở thành một sản phẩm hàng hóa có giá trị cao được người tiêu dùng ưa chuộng do có chất lượng, màu sắc, hương thơm đặc trưng.
Năm 2017, huyện Na Rì trồng được hơn 450 ha dong riềng, sản lượng đạt khoảng trên 30.000 tấn, đem lại giá trị kinh tế trên 40 tỷ đồng. Năm 2018, toàn huyện trồng được hơn 500 ha dong. Vào vụ thu hoạch, theo đánh giá của ngành chuyên môn, năng suất và chất lượng củ dong năm nay cao hơn năm trước, do diện tích tăng và nhiều hộ thực hiện kỹ thuật trồng dong riềng lên luống. Hiện nay, các cơ sở chế biến bột, miến dong đã bước vào vụ thu mua, chế biến củ dong cho người dân.
Trong khi đó, Ba Bể là huyện có diện tích trồng dong riềng đứng thứ 2 của tỉnh Bắc Kạn, năm 2018 tổng diện tích trồng dong riềng của huyện đạt 366 ha, bằng 130,9% kế hoạch, năng suất ước đạt 650 tạ/ha, sản lượng củ dong ước đạt 23.817 tấn.
Hiện nay đang mùa thu hoạch dong riềng, người dân đã thu hoạch được 80 ha dong riềng tại các xã Yến Dương, Địa Linh, Khang Ninh, Thượng Giáo. Giá thu mua củ dong trên địa bàn huyện tại các trục đường trung bình 1.100 -1.200 đồng/kg, giá thu mua tại cơ sở sản xuất đạt 1.400 - 1.500 đồng/kg.
Về tình hình bao tiêu sản phẩm củ dong riềng, tổng diện tích ký kết với doanh nghiệp để tiêu thụ củ dong riềng là 175,55 ha, sản lượng củ bán cho doanh nghiệp ước khoảng 11.540 tấn, trong đó Hợp tác xã Sang Hà ký hợp đồng bao tiêu với sản lượng 5.000 tấn; Doanh nghiệp tư nhân miến dong Huyền Ngân Ba Bể ký hợp đồng với sản lượng khoảng 2.600 tấn; Cơ sở miến dong Nhất Thiện ký hợp đồng bao tiêu sản lượng củ ước khoảng 3.800 tấn.
Diện tích người dân tự sơ chế là 190,87 ha với sản lượng củ ước khoảng 12.400 tấn, lượng tinh bột thu được khoảng 1.603 tấn. Sản phẩm tinh bột sản xuất ra chủ yếu bán cho thương lái, cơ sở miến dong Triệu Thị Tá, Cơ sở miến dong Thượng Minh, Doanh nghiệp tư nhân miến dong Huyền Ngân Ba Bể.
Sản xuất miến dong Bắc Kạn ngày càng được chuyên nghiệp hóa
Trong những năm gần đây, quy trình sản xuất miến dong Bắc Kạn ngày càng chuyên nghiệp hóa với đủ loại máy móc hỗ trợ. Củ dong già sau khi thu về, rửa sạch đất cát rồi đem nghiền lọc bột. Bột dong thô còn phải qua nhiều lần đánh nhuyễn, cho vào bể lắng, bơm đầy nước cho tinh bột lắng xuống. Cứ như vậy, sau khoảng 10 lần lọc mới thu về bột dong nguyên chất đưa vào sử dụng. Trên những giàn máy tráng, người sản xuất lấy tinh bột đã được hồ hóa ở dạng sệt, được pha theo tỷ lệ nhất định rồi tiến hành bơm theo định lượng, bột đi qua bộ phận cán mỏng dàn đều tạo thành tấm bánh miến có độ mỏng từ 1 - 1,2 mm. Đồng thời, quá trình đó hệ thống cung cấp nước ở nhiệt độ cao được đưa đến làm chín bánh. Chiếc băng tải dàn tráng chuyển động đưa tấm bánh vừa tráng xong rơi trên bề mặt phên phơi đặt bên dưới và được điều chỉnh chuyển động đồng tốc với quá trình tạo bánh miến. Hệ thống phun nước của máy tráng xả nước lạnh vào tấm bánh trước khi tấm bánh tách ra khỏi băng tải xuống phên phơi. Mục đích của việc phun nước lạnh nhằm làm nguội và se bề mặt giúp tấm bánh dễ dàng tách ra khỏi băng tải dàn tráng. Mỗi phên bánh có kích thước dài 2-2,5 m, rộng 0,6-0,7 m được đem phơi nắng sơ qua.
Theo kinh nghiệm của những người làm miến lâu năm, miến được phơi nắng cho đến khi cầm tay thấy bánh hơi mềm, ráp tay là có thể mang đi cắt, nếu bánh tráng ẩm quá sẽ không cắt tạo sợi được, nếu khô quá cắt sẽ bị gãy vụn. Những sợi miến dài như vậy lại một lần nữa được đem phơi trên những giàn cao thoáng. Cuối cùng, miến được cắt đoạn dài khoảng 40 cm, đóng gói rồi đưa ra thị trường.
Việc sử dụng máy tráng chỉ làm tăng sản lượng miến chứ hoàn toàn không ảnh hưởng đến chất lượng. Miến có ngon hay không phụ thuộc vào khâu pha chế tinh bột. Phương thức sản xuất tưởng như khá đơn giản nhưng lại không dễ, chỉ cần lơ là một chút, không tuân thủ quy trình là miến có thể bị khô, dễ gãy và sợi miến không được đều, đẹp.
Số lượng cơ sở sản xuất miến dong sử dụng nhãn hiệu tập thể “Miến dong Bắc Kạn” gia tăng
Từ đầu năm 2018 đến nay, Hội Nông dân tỉnh Bắc Kạn đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể “Miến dong Bắc Kạn” cho 03 cơ sở sản xuất miến dong, nâng tổng số cơ sở sản xuất miến dong sử dụng nhãn hiệu tập thể lên 22 cơ sở. 03 cơ sở mới được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể “Miến dong Bắc Kạn”, gồm: Cơ sở sản xuất miến dong Thắm Lượng ở thôn Phiêng Bang, xã Lạng San (Na Rì); cơ cở sản xuất miến dong Huyền Ngân ở thôn Nà Ngò, xã Mỹ Phương và cơ sở sản xuất miến dong Kim Phượng ở thôn Vằng Kè, xã Hà Hiệu (Ba Bể).
Sử dụng nhãn hiệu tập thể để khẳng định chất lượng và nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm, đảm bảo thương hiệu cho mỗi cơ sở. Qua đó giảm thiểu tình trạng làm giả, làm nhái hoặc trà trộn sản phẩm kém chất lượng, ảnh hưởng đến uy tín sản phẩm miến dong Bắc Kạn nói chung và cơ sở sản xuất miến nói riêng. Đây cũng là cơ hội để các cơ sở tăng sản lượng tiêu thụ, do sản phẩm có mẫu mã đẹp, đóng gói chắc chắn, trọng lượng phù hợp thị hiếu người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh.
Tuy nhiên, hoạt động trồng và sản xuất dong riềng Bắc Kạn đang gặp nhiều khó khăn do thiếu sự gắn kết giữa trồng, sản xuất và chế biến. Theo thống kê của Sở Công Thương tỉnh, tính đến cuối năm 2018, trên địa bàn tỉnh hiện có 27 cơ sở sản xuất, chế biến miến dong và tinh bột dong riềng đang hoạt động, tổng công suất chế biến 449 tấn củ/ngày. Dự kiến sản lượng sản xuất miến dong năm 2018 đạt trên dưới 2.000 tấn, sử dụng khoảng 2.000 tấn tinh bột/năm. Với sản lượng trên 72.600 tấn dong củ, thời vụ chế biến miến dong trong vòng 100 ngày, các cơ sở này chỉ tiêu thụ được 44.900 tấn dong củ, thừa ra 27.660 tấn.
Thiếu sự gắn kết giữa trồng, sản xuất và chế biến
Tình trạng dư thừa lượng lớn nguyên liệu dong riềng phụ thuộc vào quy mô sản xuất miến dong tại địa phương chưa đáp ứng, giá bán bấp bênh do thị trường thu mua tinh bột dong ngoài tỉnh. Lượng tinh bột dong riềng năm nay ước khoảng 11.620 tấn, các cơ sở sản xuất miến dong trên địa bàn tỉnh chỉ tiêu thụ khoảng 2.000 tấn tinh bột, như vậy khối lượng tinh bột dư thừa khá lớn, chưa kể một lượng lớn còn tồn đọng từ năm 2017 (khoảng 5.000 tấn). Nếu bán tinh bột ra ngoài tỉnh thì dễ bị ép giá, giá bán thấp (giá tinh bột dong lai bảo quản ướt 10.000 đồng/kg, tinh bột dong riềng khô 18.000 – 20.000 đồng/kg). Do đó, nếu chỉ bán củ dong và tinh bột dong riềng thì lợi nhuận thu được rất thấp, giá bán rẻ như hiện nay thì người trồng dong riềng thua thiệt.
Một thực tế là nếu sản xuất tinh bột thì lỗ nặng nhưng khi sản xuất miến thì các cơ sở sản xuất, chế biến thu lãi rất ổn định. Theo tính toán, khoảng 10 kg dong củ (tỷ lệ bột 19%) sản xuất được 1 kg miến, giá bán từ 55.000 – 75.000 đồng/kg thì lợi nhuận không nhỏ (giá thu mua củ cao nhất là 1.500 đồng/kg). Các cơ sở sản xuất miến dong đều cho biết những năm gần đây miến dong Bắc Kạn tiêu thụ nhanh, thậm chí không đủ cung cấp vào dịp Tết. Song với dây chuyền sản xuất còn hạn chế, diện tích nhà xưởng nhỏ, năng lực tài chính hạn hẹp như hiện nay thì các cơ sở sản xuất miến không thể “kham” nổi lượng nguyên liệu dong riềng ngày một tăng.
Sản lượng nguyên liệu dư thừa lớn nên mỗi năm UBND tỉnh đều phải tổ chức ít nhất 1- 2 cuộc họp bàn giải pháp tiêu thụ dong riềng. Điều này cho thấy trong phát triển cây dong riềng tại tỉnh Bắc Kạn đang tồn tại mâu thuẫn giữa quy mô sản xuất – quy hoạch diện tích trồng. Diện tích trồng dong riềng đang vượt quá nhiều so với năng lực sản xuất chế biến miến dong trên địa bàn tỉnh. Việc tính toán lại quy hoạch cho đồng bộ, cân bằng giữa diện tích trồng cây dong riềng cho phù hợp với sản xuất, chế biến miến dong là vấn đề cần quan tâm. Trước thực trạng này, trong vụ dong riềng 2019, ngành Nông nghiệp nên cân nhắc tính toán lại diện tích trồng sao cho vùng nguyên liệu đảm bảo cung cấp đủ công suất sản xuất chế biến miến trên địa bàn, đồng thời mở rộng phát triển quy mô sản xuất, chế biến miến dong, góp phần giữ gìn và phát triển thương hiệu sản phẩm miến dong Bắc Kạn.
Nguồn: VITIC