Với gần 3.000 ha mặt nước lợ và hơn 30.000 lồng nuôi thủy, hải sản các loại, mỗi năm, vùng phát triển nuôi trồng thủy hải sản Phú Yên luôn cho sản lượng trên 10.000 tấn, trong đó, có 600 - 650 tấn tôm hùm và 7.800 tấn tôm sú, tôm thẻ chân trắng … ngành nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản được xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh Phú Yên. Tuy nhiên, thời gian qua, Phú Yên vẫn chưa khai thác hết tiềm năng, thế mạnh để tạo nên giá trị gia tăng lớn cho địa phương. Để nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp vào nguồn thu đáng kể cho Phú Yên, cải thiện đời sống người dân và nâng cao giá trị sản xuất cho doanh nghiệp, UBND tỉnh Phú Yên đã chú trọng đầu tư cho sự phát triển của ngành, đồng thời tập trung tái cơ cấu ngành thủy sản bằng nhiều giải pháp, trong đó phát triển ngành theo hướng ngày càng chú trọng nâng cao giá trị lĩnh vực nuôi trồng.
Phú Yên – khai thác và chế biến thủy hải sản, phát huy tiềm năng biển đảo
Phú Yên là địa phương có dư địa phát triển ngành thủy hải sản, với lợi thế có gần 14.000 ha mặt nước các đầm, vịnh là tiền đề để tỉnh Phú Yên phát triển mạnh nghề nghề nuôi trồng thuỷ sản Phú Yên. Qua 3 năm thực hiện tái cơ cấu ngành thủy sản, đã có sự chuyển dịch đáng kể, năm 2017 lĩnh vực nuôi trồng tăng từ 36% lên 46,5%, và khai thác giảm xuống còn 53,5%.
Hiện nay, diện tích nuôi trồng thủy sản hàng năm ở tỉnh Phú Yên là hơn 2.600 ha, các sản phẩm gồm tôm thẻ chân trắng, tôm sú, tôm hùm, cá mú, cá hồng, cá bớp…mang lại trị giá cao, bình quân khoảng 842 triệu đồng/ha. Các địa phương ven biển gồm: thị xã Sông Cầu, thành phố Tuy Hòa, huyện Tuy An và huyện Đông Hòa đã và đang tiến hành kiểm đếm số hộ và số lồng, bè nuôi trồng thủy sản. Riêng thị xã Sông Cầu là địa phương có diện tích trồng thủy sản lớn nhất tỉnh Phú Yên. Theo số liệu thống kê sơ bộ, thị xã Sông Cầu có 2.918 hộ nuôi các loài thủy sản, chủ yếu nuôi tôm hùm với 1.736 bè và 80.448 lồng nuôi. Trong số đó có đến 23.277 lồng nuôi ngoài phân vùng quy hoạch.
Sản lượng nuôi trồng thủy sản năm 2017 đạt 11.059 tấn, tăng 8% so với năm 2016. Nguyên nhân là do người dân chuyển diện tích tôm sú sang nuôi tôm thẻ chân trắng và nuôi cao triều với năng suất mỗi vụ thường đạt từ 4 tấn đến 6 tấn/ha, gấp 2 lần so với nuôi tôm sú và nuôi được 2 vụ trong một năm. Bên cạnh đó, người nuôi còn mạnh dạn đa dạng hóa vật nuôi như cá mú, cá hồng, tu hài, vẹm xanh…. góp phần tăng sản lượng vừa cải tạo môi trường nuôi. Ngoài ra, một trong những nghề nuôi trồng thuỷ sản mạnh nhất ở Phú Yên là nghề nuôi tôm hùm bằng lồng và mỗi năm đạt sản lượng tôm hùm thương phẩm từ 500-750 tấn.
Tỉnh Phú Yên cũng đã xây dựng thành công một số mô hình nuôi trồng thủy sản theo hướng an toàn sinh học, đa dạng hóa và thân thiện môi trường. Các hoạt động giám sát môi trường và dịch bệnh tại các vùng nuôi luôn được chú trọng với gần 60% diện tích nuôi theo hướng VietGAP, an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh; 50% diện tích nuôi sử dụng con giống qua kiểm dịch. Một số công nghệ mới được áp dụng cho vùng nuôi tôm thẻ trên cát mang lại năng suất rất cao.
Tại xã Hòa Tâm (huyện Đông Hòa) có hộ nuôi tôm thẻ đạt năng suất khoảng 30 tấn/ha, lợi nhuận gần 1 tỷ đồng/ha. Công ty TNHH thủy sản Đắc Lộc nghiên cứu quy trình ương nuôi giống tôm thẻ chân trắng trong nhà lưới theo công nghệ mới và mỗi năm sản xuất từ 2,5 tỷ đến 3 tỷ con tôm giống, mở ra hướng đi mang tính ổn định, bền vững cho nghề nuôi tôm ở Phú Yên hiện nay. Quy trình này được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tặng giải Bông lúa vàng Việt Nam và ghi danh vào “Sách vàng sáng tạo Việt Nam năm 2017”.
Nhằm phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng an toàn sinh học và an toàn thực phẩm, từ nguồn vốn của Dự án Nguồn lợi ven biển vì sự phát triển bền vững (CRSD) tỉnh Phú Yên đã nâng cấp cơ sở hạ tầng hỗ trợ các vùng nuôi tại các xã: An Cư, An Hải (huyện Tuy An), xã Xuân Lộc (thị xã Sông Cầu) và xã Hòa Hiệp Nam (huyện Đông Hòa); nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất con giống tại xã Hòa Hiệp Trung (huyện Đông Hòa) và xã Xuân Hòa (thị xã Sông Cầu)...
Bên cạnh đó, UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành Quy định về quản lý lồng, bè nuôi trồng thủy sản trên các vùng biển. Hiện tỉnh đang triển khai đầu tư hạ tầng vùng nuôi trồng thủy sản Long Thạnh (thị xã Sông Cầu), xây dựng Trung tâm giống thủy sản nước mặn, lập Quy hoạch chi tiết mặt nước nuôi trồng thủy sản vịnh Xuân Đài (thị xã Sông Cầu); tổ chức triển khai mô hình thí điểm giám sát tự động chất lượng nguồn nước vùng nuôi và thành lập các tổ quản lý cộng đồng nuôi trồng thủy sản.
Quy định quản lý nuôi trồng thủy sản bằng lồng, bè vùng ven biển Phú Yên
Thực hiện đề án Quy hoạch tổng thể phát triển thủy sản đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030, UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành Quy định về Quản lý nuôi trồng thủy sản bằng lồng, bè trên các vùng ven biển của tỉnh.
Theo đó, cơ sở nuôi trồng thủy sản bằng lồng, bè trên địa bàn tỉnh phải có quyết định giao hoặc cho thuê mặt nước của cấp có thẩm quyền. Đồng thời, đáp ứng được các quy định về bảo vệ môi trường, an toàn dịch bệnh, an toàn lao động và an toàn thực phẩm. Vật liệu, kết cấu lồng, bè được thiết kế chắc chắn, dễ di dời, lắp đặt, bảo đảm chống chịu được điều kiện gió, bão tối thiểu là cấp 9; ưu tiên sử dụng vật liệu làm lồng, bè bằng nhựa HDPE; kích thước mắt lưới phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đối tượng nuôi. Thiết bị máy móc sử dụng trên lồng, bè phải đảm bảo không rò rỉ xăng, dầu vào nguồn nước và các công trình phụ trợ khác.
Quy định cũng nêu rõ vị trí đặt lồng, bè phải nằm trong vùng quy hoạch của từng địa phương. Mật độ lồng nuôi từ 30 lồng đến 60 lồng/ha. Đáy lồng, bè đặt cách đáy biển ít nhất 1 mét vào lúc mực nước thủy triều thấp nhất. Khoảng cách tối thiểu giữa các lồng trong cùng một bè hoặc cùng một cụm lồng là 1 mét, khoảng cách giữa các bè hoặc cùng một cụm lồng của 1 cơ sở nuôi không nhỏ hơn 50 mét.
Việc ban hành quy định trên nhằm khắc phục khâu yếu nhất trong công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch vùng nuôi các loài thủy sản, nhất là quy hoạch vùng nuôi tôm hùm. Sắp tới, tỉnh tiếp tục chỉ đạo các huyện, thị xã, thành phố thành lập Ban quản lý vùng nuôi tại các địa phương, để quản lý, kiểm soát chặt chẽ nuôi trồng thủy sản. Cùng đó, tiếp tục triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển thủy sản theo quy định của Chính phủ. Cụ thể, UBND các xã, phường thông báo rộng rãi đến các hộ nuôi những nội dung Quy định về quản lý nuôi trồng thủy sản bằng lồng, bè trên các vùng ven biển của tỉnh; sắp xếp lại các vùng nuôi và không để phát sinh lồng, bè nuôi mới. Ngoài ra, vận động người dân nuôi trồng thủy sản theo đúng phương án phân vùng mặt nước biển đã được UBND tỉnh Phú Yên phê duyệt.
Những lồng, bè nuôi thủy sản ở huyện Tuy An – Phú Yên
Phú Yên đầu tư mạnh vào ngành nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản
UBND tỉnh Phú Yên xác định ngành nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản là một trong những mũi nhọn kinh tế, do đó tỉnh Phú Yên đã đề ra giải pháp cho những năm tiếp theo bằng việc ban hành kế hoạch hành động tái cơ cấu ngành thủy sản Phú Yên, theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Cụ thể, mục tiêu của kế hoạch nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng cao, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh thông qua tăng năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng. Tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị sản xuất thủy sản đạt trên 6%/năm. Trong đó, giá trị khai thác thủy sản tăng trưởng bình quân trên 2,4%/năm, giá trị nuôi trồng thủy sản tăng trưởng bình quân trên 6,5%/năm, tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị xuất khẩu thủy sản đạt trên 6%/năm. Đến năm 2020, thu nhập bình quân lao động thủy sản cao gấp 2,5 lần so với năm 2010.
Kế hoạch cũng đặt mục tiêu vào năm 2030, ngành thủy sản cơ bản đạt trình độ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, tiếp tục phát triển toàn diện, tăng trưởng hướng theo chất lượng, ổn định, bền vững và trở thành ngành sản xuất hàng hóa lớn, có cơ cấu và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý.
Để đạt được mục tiêu đề ra, UBND tỉnh đã chỉ đạo các sở, ngành, địa phương hướng dẫn và chỉ đạo tập trung vào các giống nuôi có giá trị kinh tế ổn định quy mô trên diện tích khoảng 11.000 ha, như: tôm thẻ chân trắng trên địa bàn huyện Đông Hòa; nuôi tôm sú, tôm hùm, cá bóp, cá mú ở thị xã Sông Cầu và huyện Tuy An… Để đến năm 2020 giữ ổn định sản lượng khai thác, đánh bắt thủy sản khoảng 53.000 tấn/năm, trong đó, sản lượng cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to khoảng 6.500 tấn/năm, sản lượng cá ngừ vằn khoảng 17.500 tấn/năm, tổng số tàu cá khoảng 6.200 chiếc, trong đó, tàu có công suất từ 90CV trở lên khoảng 1.700 chiếc, chủ yếu khai thác hải sản xa bờ và tàu dịch vụ hậu cần khai thác xa bờ.
Đặc biệt, mở rộng áp dụng hệ thống quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm theo ISO, HACCP, GMP, SSOP…, nghiên cứu và đầu tư ứng dụng công nghệ trong bảo quản và chế biến sau thu hoạch, công nghệ cấp đông sản phẩm (CAS), giảm tỷ lệ thất thoát và tiêu thụ có giá trị cao. Phát triển chế biến, tiêu thụ thủy sản trong mối liên kết chuỗi sản xuất nuôi trồng, khai thác, chế biến, thương mại sản phẩm thủy sản để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và ngư dân khai thác.
Đồng thời, tập trung đầu tư các nhà máy chế biến và xuất khẩu cá ngừ đại dương, năng suất dự kiến 2.000 - 3.000 tấn sản phẩm/năm; xây dựng các trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá tại thị xã Sông Cầu và TP. Tuy Hòa, diện tích 10 ha, đáp ứng cho 1.000 tàu. Ngoài các dự án trên, tỉnh còn tập trung đầu tư theo danh mục đã được UBND tỉnh đăng ký với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Để thực hiện các giải pháp trên có hiệu quả, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cho ngành thủy sản, đào tạo nghề cho ngư dân cũng phải quan tâm đúng mức nhằm đáp ứng nhu cầu và trình độ phát triển sản xuất.
Danh mục dự án ưu tiên đầu tư giai đoạn 2018-2020
Về lĩnh vực nuôi trồng thủy sản: Đầu tư cơ sở hạ tầng vùng nuôi trồng thủy sản Long Thạnh; nâng cấp hạ tầng khu sản xuất giống Hòa An, xã Xuân Hòa, thị xã Sông Cầu. Đầu tư cơ sở hạ tầng nuôi hải sản bằng lồng bè trên biển xã An Hải; Trung tâm giống thủy sản nước mặn tỉnh Phú Yên, huyện Tuy An. Đầu tư cơ sở hạ tầng vùng nuôi trồng thủy sản hạ lưu sông Bàn Thạch; Nâng cấp hạ tầng khu sản xuất giống Hòa Hiệp Trung, huyện Đông Hòa.
Lĩnh vực khai thác thủy sản: Nâng cấp cảng cá Tiên Châu và Khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá Lạch Vạn Củi - huyện Tuy An. Cảng cá ngừ chuyên dụng, chợ đấu giá cá ngừ tại Đông Tác; Khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá Đông Tác - thành phố Tuy Hòa; khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá Lạch xã Hoà Hiệp Nam - Hoà Hiệp Trung, huyện Đông Hòa.
Lĩnh vực chế biến và thương mại thuỷ sản: Kêu gọi các nguồn vốn FDI, vốn ngoài ngân sách đầu tư:Dự án xây dựng nhà máy thu mua, chế biến và xuất khẩu cá ngừ đại dương và thủy sản khác, năng lực 1.800 tấn/năm tại Đông Tác - thành phố Tuy Hoà; Dự án xây dựng nhà máy chế biến thủy sản đông lạnh, năng lực 3.000 - 3.500 tấn/năm tại thị xã Sông Cầu; Dự án nhà máy chế biến thức ăn công nghiệp cho tôm hùm, công suất khoảng 10.000 tấn/năm (tại khu công nghiệp Đông - Bắc Sông Cầu).
Tuy nhiên, biến đổi khí hậu đang đe dọa lớn đến ngành nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản. Chưa kể, trình độ và công nghệ canh tác, đánh bắt, nuôi trồng còn lạc hậu, chất lượng con giống không đảm bảo... đã gây thiệt hại không nhỏ cho người dân. Do đó, doanh nghiệp, người nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản theo hướng bền vững sẽ đóng góp quan trọng trong việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp thành công và góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà. Trong những năm qua, có một số doanh nghiệp đã sản xuất kinh doanh thành công, như CTCP Ba Hải, Công ty TNHH Nguyễn Hưng trong lĩnh vực chế biến xuất khẩu... Đặc biệt, Doanh nghiệp tư nhận Thủy sản Đắc Lộc đã thành công với mô hình sản xuất thủy sản ứng dụng công nghệ cao. Đây là mô hình sản xuất kinh doanh khép kín, đã được Tổ chức Bureau Veritas (Pháp) cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn GlobalGAP và Đắc Lộc là một trong những doanh nghiệp nuôi tôm đầu tiên tại Việt Nam được công nhận đạt tiêu chuẩn này. Với quy trình sản xuất khép kín, Doanh nghiệp Đắc Lộc đã và đang kiểm soát chặt chẽ chất lượng từ đầu vào đến đầu ra của sản phẩm, nên đủ tiêu chuẩn xuất sang các thị trường khó tính trên thế giới và cũng là một trong những doanh nghiệp nuôi tôm đầu tiên của tỉnh áp dụng tiêu chuẩn thực hành tốt toàn cầu.
Doanh nghiệp tư nhân Thủy sản Đắc Lộc đã xây dựng được chuỗi liên kết rất tốt giữa Nhà nước, nhà khoa học, nhà sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm, đạt hiệu quả cao về kinh tế, môi trường và xã hội, nên đây là một mô hình cần được nhân rộng trong thời gian tới.
Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản tỉnh Phú Yên
Theo Quy hoạch tổng thể phát triển thủy sản tỉnh Phú Yên đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 vừa được UBND tỉnh phê duyệt, phấn đấu tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng ngành thủy sản thời kỳ 2015 - 2030 là 5,2%/năm; trong đó, khai thác thủy sản tăng bình quân 2,4%/năm; nuôi trồng thủy sản tăng bình quân 5,4%/năm; chế biến thủy sản tăng bình quân 7,1%/năm.
Về định hướng phát triển, Quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa, tập trung phát triển nuôi các đối tượng có giá trị kinh tế cao, phục vụ xuất khẩu và phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh; tổ chức lại sản xuất trên biển nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng khai thác ổn định và bền vững, coi trọng chất lượng tăng trưởng, tạo chuyển biến rõ nét về chất lượng sản phẩm khai thác, đặc biệt là sản phẩm xuất khẩu; phát triển khai thác hiệu quả đi đôi với bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Tăng cường chỉ đạo khai thác theo ngư trường, mùa vụ và tập trung sản xuất theo tổ đội, theo nghề. Nâng cao ý thức bảo vệ nguồn lợi thủy sản cho ngư dân bằng việc tăng cường tuyên truyền phổ biến các quy định của pháp luật, thường xuyên thả bổ sung giống thủy sản về với tự nhiên nhằm phục hồi và tái tạo nguồn lợi.
Đồng thời, phát triển các hình thức kinh tế hợp tác, tổ/đội, hợp tác xã, liên kết chuỗi trong khai thác thuỷ sản. Từng bước phát triển đội tàu dịch vụ, thu mua, bảo quản và sơ chế sản phẩm trên biển để tiết kiệm thời gian và giảm chi phí cho các đội tàu đánh bắt. Phát triển chế biến, tiêu thụ thuỷ sản trong mối liên kết chuỗi sản xuất nuôi trồng, khai thác, chế biến, thương mại thuỷ sản để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và ngư dân. Phát triển nghề chế biến nước mắm truyền thống trên cơ sở nâng cao chất lượng, đa dạng hóa mẫu mã, bao bì, xây dựng thương hiệu, làng nghề.
Đối với quy hoạch nuôi trồng thủy sản
Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản đến năm 2020 đạt 10.930 ha, gồm: diện tích nuôi nước lợ, mặn 3.630 ha, trong đó: diện tích nuôi ao, đìa 1.919ha (kể cả 07ha nuôi tôm công nghệ cao tại xã Hòa Hiệp Nam, huyện Đông Hòa); diện tích mặt nước biển nuôi tôm hùm, cá biển 1.650 ha (vịnh Xuân Đài 747ha, đầm Cù Mông 253ha, vùng biển Tuy An 650ha); diện tích sản xuất giống 61ha. Diện tích nuôi nước ngọt 7.300ha, trong đó có 7.000ha nuôi bằng hình thức thả bù giống, khai thác tỉa ở các hồ chứa thủy lợi, thủy điện.
Tổng diện tích đến năm 2025 đạt 10.972 ha, gồm: diện tích nuôi nước lợ, mặn 3.672 ha, trong đó: diện tích nuôi ao, đìa 1.891ha (kể cả 07ha nuôi tôm công nghệ cao tại xã Hòa Hiệp Nam, huyện Đông Hòa); diện tích sản xuất giống 61ha; diện tích mặt nước biển nuôi tôm hùm, cá biển 1.650 ha; diện tích nuôi tôm hùm trên bờ công nghệ cao 70ha, gồm: Thị xã Sông Cầu 60ha tại các khu đất nuôi trồng thủy sản của Công ty TNHH thủy sản Đắc Lộc, xã Xuân Hải, khu sản xuất giống thủy sản xã Xuân Hòa, một phần diện tích dự án điện mặt trời và một số vị trí khác phù hợp, đảm bảo không chồng lấn, mâu thuẫn với các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và du lịch; huyện Tuy An 10ha, tại khu đất 26 ha của 03 Doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản và khu đất 08ha của Trung tâm sản xuất giống thủy sản nước mặn tỉnh Phú Yên thuộc xã An Hải, huyện Tuy An). Diện tích nuôi nước ngọt 7.300ha.
Đến năm 2030, tổng diện tích nuôi đạt 10.962 ha, gồm: diện tích nuôi nước lợ, mặn 3.662 ha, trong đó: diện tích nuôi ao, đìa 1.881ha (kể cả 07ha nuôi tôm công nghệ cao tại xã Hòa Hiệp Nam, huyện Đông Hòa); diện tích sản xuất giống 61ha; diện tích mặt nước biển nuôi tôm hùm, cá biển 1.650 ha và diện tích nuôi tôm hùm trên bờ công nghệ cao 70ha. Nuôi nước ngọt 7.300ha.
Tổng sản lượng đến năm 2020 đạt 14.307 tấn (trong đó sản lượng nuôi nước mặn, lợ 13.500 tấn); năm 2025 đạt 16.680 tấn (sản lượng nuôi nước mặn, lợ: 15.700 tấn) và năm 2030 đạt 19.360 tấn (sản lượng nuôi nước mặn, lợ 18.200 tấn); tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2015 - 2030 đạt 5,3%/năm.
Đối với quy hoạch khai thác thủy sản
Số lượng tàu thuyền đến năm 2020 khoảng 4.150 chiếc, công suất 290.000 CV; năm 2025 là 4.100 chiếc, công suất 335.000 CV; năm 2030 khoảng 4.000 chiếc, công suất 350.000 CV. Sản lượng khai thác thủy sản các loại đến năm 2020 là 55.000 tấn; năm 2025 đạt 56.000 tấn; năm 2030 là 56.000 tấn.
Sản lượng chế biến thủy sản các loại đến năm 2020 đạt 50.000 tấn, năm 2025 đạt 54.500 tấn và đến năm 2030 đạt 60.000 tấn. Tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2015 - 2030 đạt 6,62%/năm.
Quy hoạch cơ sở hạ tầng nghề cá
Đối với cấp tỉnh: xin hỗ trợ vốn của Trung ương, vốn ODA đầu tư xây dựng cảng cá Đông Tác thành cảng cá loại I (cảng cá ngừ chuyên dụng). Đầu tư nâng cấp cảng cá Tiên Châu và Khu neo đậu tránh trú cho tàu cá lạch Vạn Củi (huyện Tuy An) khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá Lạch xã Hoà Hiệp Nam - Hòa Hiệp Trung, huyện Đông Hòa và Khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá Đông Tác.
Đối với huyện, thị xã, thành phố: Đầu tư xây dựng các bến cá: Xuân Cảnh, Xuân Hải, Vịnh Hòa, Gành Đỏ (TX.Sông Cầu); Lễ Thịnh, Nhơn Hội, Mỹ Quang (huyện Tuy An).
Nuôi trồng thủy sản: Đầu tư và hoàn thiện các công trình đầu mối, hệ thống thủy lợi, hệ thống điện, hệ thống giao thông phục vụ cho vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung.
Quy hoạch dịch vụ hậu cần thủy sản
Đối với cơ khí đóng, sửa tàu cá: Đầu tư xây dựng 04 cơ sở đóng mới, sửa chữa tàu cá tại thị xã Sông Cầu (kết hợp với cảng cá Dân Phước), huyện Tuy An (kết hợp với cảng cá Tiên Châu), thành phố Tuy Hoà (tại khu đất quy hoạch đầu tư cảng cá ngừ chuyên dụng, chợ đấu giá cá ngừ tỉnh kết hợp với cảng cá Đông Tác) và huyện Đông Hòa (kết hợp với cảng cá Phú Lạc) nhằm đáp ứng nhu cầu đóng mới và sửa chữa tàu cá của tỉnh. Đầu tư xây dựng mới nhà máy đóng, sửa tàu cá bằng các vật liệu mới như Composite, Polypropylene Polystone Copolymer (PPC) và thép; từng bước thay thế các tàu cá vỏ gỗ.
Cung ứng nước đá, nhiên liệu, vật tư nghề cá: Khuyến khích các thành phần kinh tế của tư nhân đầu tư: xây mới và nâng cấp hệ thống cơ sở sản xuất nước đá theo quy hoạch để đáp ứng nhu cầu bảo quản thủy sản. Đầu tư 02 - 03 cơ sở sản xuất, gia công vật tư, ngư lưới cụ đáp ứng dịch vụ hậu cần cho nghề cá.
Đội tàu dịch vụ hậu cần nghề cá trên biển: Khuyến khích các thành phần kinh tế của tư nhân phát triển đội tàu dịch vụ hậu cần nghề cá trên biển hiện đại có công suất trên 1.000 CV thực hiện các dịch vụ cung ứng nhiên liệu, vật tư, mua sản phẩm trên biển. Số lượng khoảng 70 chiếc vào năm 2020, đến năm 2025 đạt khoảng 80 chiếc và tăng lên khoảng 90 chiếc vào năm 2030.
Dịch vụ cung ứng giống thủy sản: Đến năm 2020 sản xuất 3.107 triệu con giống các loại, trong đó tôm giống 2.965 triệu con. Đến năm 2025, sản xuất khoảng 6.016 triệu con giống các loại, trong đó tôm giống 5.726 triệu con. Đến năm 2030, sản xuất khoảng 12.032 triệu con giống các loại, trong đó tôm giống 11.478 triệu con.
Diện tích quy hoạch sản xuất giống thủy sản: Hòa Hiệp Trung (huyện Đông Hòa) 09 ha; An Hải (huyện Tuy An) 14 ha, trong đó Trung tâm giống Thủy sản nước mặn tỉnh (xã An Hải, huyện Tuy An) 08 ha; các khu sản xuất giống tại thị xã Sông Cầu: Xuân Hải 30ha, Xuân Hòa 08ha.
Nguồn: VITIC