Chủ Nhật, 10/08/2025
Dòng sự kiện
  • Trang chủ

Đẩy mạnh vườn cây ăn trái theo các tiêu chuẩn GAP tại Đồng bằng sông Cửu Long

Ngày đăng: 31/12/2018
Lượt xem: 730
Nằm ở vị trí cuối nguồn của lưu vực sông Mekong, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có 4 triệu ha đất tự nhiên, trong đó có 3,8 triệu ha đất nông nghiệp, với dân số khoảng 18 triệu người; là vùng kinh tế trọng điểm, trung tâm chính trị, kinh tế - xã hội, có vị trí chiến lược về an ninh, quốc phòng. Đây là vùng kinh tế thuần nông với cơ cấu kinh tế khu vực nông nghiệp chiếm 40% và cơ cấu lao động trong nông nghiệp chiếm 52%. Mặc dù diện tích đất nông nghiệp của vùng ĐBSCL chỉ bằng 27% cả nước, nhưng mỗi năm làm ra hơn 25 triệu tấn lúa, hàng triệu tấn thủy sản, hàng triệu tấn trái cây và nhiều sản vật nông nghiệp khác. Các chuyên gia quốc tế nhìn nhận, ĐBSCL không chỉ là vựa lương thực của Việt Nam, mà còn của Đông Nam Á, góp phần quan trọng cho an ninh lương thực của thế giới.

Với những thế mạnh về địa hình, trong những năm vừa qua, ĐBSCL đã trở thành vùng sản xuất trái cây hàng hóa lớn nhất nước, chiếm hơn 43% diện tích, 60% sản lượng. Từ vị trí thứ 3, cây ăn trái đã vượt qua cây lúa, định hình cơ cấu kinh tế nông nghiệp mới của vùng là thủy sản - trái cây - lúa gạo.

ĐBSCL hiện là vùng sản xuất trái cây hàng hóa lớn nhất nước với diện tích 400 ngàn ha trong tổng diện tích 920 ngàn ha của cả nước, chiếm khoảng 43,5%, cho sản lượng 6 triệu tấn/năm, chiếm hơn 60% sản lượng cây ăn trái cả nước. Các vùng chuyên canh cây ăn trái ở các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cần Thơ với nhiều chủng loại trái cây ngon, đặc sản đã tạo ra mảng sáng nổi bật trên bản đồ cây ăn quả cả nước.

Trong 5 năm gần đây, xuất khẩu rau quả nước ta tăng trưởng bình quân khoảng 35%/năm với khoảng 40 loại rau quả xuất khẩu sang 60 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó, vùng nguyên liệu trái cây ĐBSCL có nhiều đóng góp quan trọng về diện tích, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu. Nhiều loại trái cây của vùng này đã vượt qua các rào cản kỹ thuật, chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, thâm nhập các thị trường khó tính như Hoa Kỳ, Nhật, Hàn, EU, góp phần quan trọng vào tăng trưởng chung của ngành.

Trái cây ở ĐBSCL đa dạng về chủng loại, thu hoạch quanh năm, sản lượng lớn… nhưng chất lượng còn hạn chế, kích cỡ chưa đồng đều, từ đó ảnh hưởng đến xuất khẩu. Bên cạnh đó, tình trạng chưa có thương hiệu và công nghiệp chế biến trái cây còn yếu kém vẫn đang là thách thức lớn của toàn vùng.

Nhiều nhà vườn tại ĐBSCL ứng dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn GAP, đem lại hiệu quả tích cực

Khắc phục tình trạng này, ngành nông nghiệp chủ trương phát triển vườn cây ăn trái theo hướng VietGAP, nhằm đưa trái cây vươn ra thế giới. Theo đó, trong thời gian qua, nhiều nhà vườn, hợp tác xã trong vùng ĐBSCL đã ứng dụng ngày càng tốt hơn các quy trình sản xuất và tiêu chuẩn chất lượng an toàn như VietGAP, GlobalGAP, đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch. Nhiều giống cây ăn trái chất lượng cao như cam, quýt, bưởi, xoài, sầu riêng, thanh long, chuối ở các địa phương trong vùng phát triển nhanh về diện tích và sản lượng. Một số loại trái cây đặc sản có thương hiệu, được thị trường ưa chuộng như xoài cát Hòa Lộc, vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim (Tiền Giang), sầu riêng, bưởi da xanh, chôm chôm (Bến Tre), bưởi Năm Roi, cam sành (tỉnh Vĩnh Long).

Có thể nói, thời buổi hội nhập quốc tế đòi hỏi chất lượng ngày càng cao, việc sản xuất trái cây theo tiêu chuẩn GAP là hướng đi phù hợp. Thực tế cho thấy, nhiều địa phương ở ĐBSCL sau khi sản xuất theo GAP đã mang lại những thành công nhất định.

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang, hiện toàn tỉnh có hơn 70.000 ha cây ăn trái, mấy năm qua, tỉnh đẩy mạnh thành lập hơn 46 hợp tác xã (HTX) và tổ hợp tác (THT) sản xuất, tiêu thụ trái cây, trong đó canh tác theo hướng GAP. Hàng năm, các HTX và THT trái cây như sầu riêng, xoài cát Hòa Lộc, khóm, vú sữa Lò Rèn, thanh long… hợp tác với các doanh nghiệp ký hợp đồng tiêu thụ với số lượng khá lớn.

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Vĩnh Long, cây ăn trái được xác định là thế mạnh nông nghiệp, vì thế tỉnh luôn khuyến cáo nông dân canh tác hướng GAP. Đến nay, nhiều xã viên của HTX chôm chôm Bình Hòa Phước, huyện Long Hồ; THT trồng sầu riêng Thanh Bình, huyện Vũng Liêm; HTX chôm chôm Tích Thiện, huyện Trà Ôn; các HTX và THT trồng bưởi Năm Roi ở thị xã Bình Minh… cùng nhiều nơi khác, đã mạnh mẽ hưởng ứng mô hình GAP, nhằm nâng cao chất lượng trái cây. 

Trong khi đó, tại tỉnh Đồng Tháp, thời gian qua tỉnh rất quan tâm sản xuất trái cây tiêu chuẩn GAP nhằm đẩy mạnh xuất khẩu. Chỉ tính riêng trái xoài đã có 34 ha đạt tiêu chuẩn GlobalGAP, 48 ha đạt tiêu chuẩn VietGAP; bên cạnh đó, tỉnh thành lập 2 HTX và 34 THT về sản xuất và tiêu thụ xoài, cùng 1 chợ đầu mối, 75 cơ sở thu mua. Đồng Tháp kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư xây nhà máy chế biến trái cây xuất khẩu, tạo điều kiện để doanh nghiệp liên kết cùng nông dân sản xuất trái cây sạch… Mỗi năm, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng tấn xoài sang thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… 

Ngoài ra, Viện Cây ăn quả Miền Nam cùng các trung tâm giống đã có nhiều đóng góp trong việc nghiên cứu, chuyển giao giống, kỹ thuật canh tác, phòng trị bệnh cây trồng; đã hình thành bước đầu mối liên kết giữa nhà vườn, nhà khoa học, thương lái, chủ vựa, chành, hợp tác xã, doanh nghiệp trong các khâu nghiên cứu, sản xuất, tiêu thụ. Các mô hình sáng tạo như Câu lạc bộ trồng bưởi tạo hình cho giá trị cao ở Châu Thành (Hậu Giang), Tổ hợp tác trồng chuối cấy mô Lâm Phát Hưng ở xã Thới Hưng, huyện Cờ Đỏ, TP Cần Thơ áp dụng công nghệ Nhật, Hàn không đủ nguồn cung xuất khẩu. Mô hình trồng xoài qua mạng, “cây xoài nhà tôi” ở hợp tác xã Mỹ Xương (huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp), hay các mô hình liên kết theo chuỗi đã đưa trái cây từ vườn nhà vào các chuỗi siêu thị nội địa như Coop Mart, VinMart… bước đầu đã tạo ra cách làm mới.  

Việc sản xuất trái cây tiêu chuẩn GAP cũng bộc lộ nhiều hạn chế

Ngoài mặt được, thì việc sản xuất trái cây tiêu chuẩn GAP cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Tiêu biểu như việc sản xuất chưa gắn với thị trường, thương lái mua sản phẩm GAP tương đương với giá trái cây bình thường. Bên cạnh đó, sau thời gian đạt tiêu chuẩn GAP thì nông dân phải làm thủ tục “tái công nhận” mất khoảng 2,2 triệu đồng/ha, điều này cũng gây khó khăn không nhỏ trong việc áp dụng tiêu chuẩn GAP của nhiều hộ. Quy hoạch vùng sản xuất GAP chưa hoàn thiện, thị trường tiêu thụ còn bấp bênh, cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất GAP chưa đáp ứng. Bên cạnh đó, chính sách khuyến khích chưa đủ mạnh để các tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất GAP; phía người tiêu dùng cũng chưa quan tâm nhiều và chưa mạnh dạn trả thêm tiền để tiêu thụ trái cây GAP… Những điều này khiến diện tích cây ăn trái ở ĐBSCL đạt tiêu chuẩn GAP còn khiêm tốn. 

Bên cạnh đó, tuy có bước phát triển quan trọng, nhưng quy mô nhà vườn trong vùng chủ yếu vẫn là các nông hộ nhỏ hoặc hợp tác xã chưa đủ mạnh, thiếu vắng doanh nghiệp có nhiều tiềm lực.

Nhiều nhà vườn vẫn chưa quan tâm nâng cao giá trị, chất lượng trái cây đảm bảo tiêu chuẩn sạch, an toàn. Công tác giống và quản lý giống còn nhiều bất cập. Thất thoát sau thu hoạch còn khá lớn, công nghệ đóng gói, chế biến trái cây chưa phát triển, nên chủ yếu vẫn tiêu thụ trái cây tươi.

Cơ sở hạ tầng, hậu cần logistics yếu kém làm tăng chi phí sản xuất, lưu thông. Hệ thống dịch vụ nông nghiệp, nông thôn trong vùng còn nhiều bất cập. Liên kết giữa những người sản xuất với nhau, giữa người sản xuất và nhà phân phối giữa các địa phương có vùng chuyên canh trái cây còn rất lỏng lẻo.

Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập nhiều hiệp định thương mại quốc tế, vì vậy sản phẩm khi xuất khẩu phải đảm bảo an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc rõ ràng. Do đó, để xuất khẩu phải sản xuất GAP, mà muốn GAP phát triển thì cần trợ lực nông dân. 

Trước diễn biến này, cần sớm xây dựng vùng sản xuất rau quả chuyên canh chất lượng cao, sản xuất theo chuỗi và quy mô lớn, theo quy hoạch không gian hợp lý có tính kết nối vùng, các tiểu vùng. Phát triển mạnh sản phẩm hữu cơ, xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm chủ lực tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.

Bên cạnh đó, cũng cần tập trung đầu tư hệ thống hậu cần logistics, công nghệ chế biến, bảo quản, và hệ thống kiểm soát chất lượng chặt chẽ, đặc biệt tại các chợ đầu mối, khuyến khích các chuỗi giá trị trái cây từ nhà vườn đến các siêu thị; đưa ra những giải pháp tổng hợp xúc tiến thương mại, thiết lập các kênh bán hàng trực tiếp từ người sản xuất đến người tiêu dùng, tránh thừa cung, mất giá.

Ngoài ra, để sản xuất GAP mới phát triển nhanh, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ nông dân trong 3-5 năm đầu chứng nhận GAP; hỗ trợ cơ sở hạ tầng cho vùng canh tác GAP; hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu và mở rộng thị trường khi hợp tác phát triển trái cây GAP; đặc biệt là để nông dân canh tác GAP bán được trái cây giá hợp lý, thị trường ổn định...

Nguồn: VITIC

Tin liên quan
Liên kết website